Tu tập
là dùng ý thức tư duy, suy nghĩ cái đúng, cái sai, cái thiện, cái ác, v.
... rồi chọn lựa câu tác ý cho hợp với đặc tướng của mình, hoặc chọn lựa những hành động nội ngoại của thân, để tạo thành niệm. Nhờ nương niệm ấy tu tập tỉnh giác, nhờ tỉnh giác an trú thân tâm, nhờ an trú thân tâm mới xả ly tham, sân, si, mạn, nghi được.
Tu tập có nghĩa là sửa đổi tâm tánh, thiện xảo trong các pháp thực hành, biết linh động khi thực hành cho phù hợp trong mọi tình huống, mọi tâm trạng, mọi hoàn cảnh. Chữ tu tập của Phật giáo có nghĩa là tu sửa đổi những lỗi lầm, để không còn lỗi lầm nữa, để từ bỏ thói hư tật xấu, để từ người xấu trở thành người tốt, để từ phàm phu trở thành Thánh nhân, nghĩa là thực hành nhưng thực hành rất linh động nhằm thực hiện đạo đức làm người, làm Thánh.
Tu tập không có nghĩa là ngồi thiền, gõ mõ tụng kinh, niệm chú, niệm Phật. Từ xưa đến nay, người ta hiểu hai chữ tu tập là phải theo một tôn giáo nào và tu tập để thành Tiên, thành Phật, để được sinh về cõi Trời, cõi Phật, cõi Cực Lạc Tây Phương, chứ không mấy ai lưu ý tu là sửa sai những lỗi lầm, ngăn ngừa các ác pháp và diệt trừ các ác pháp để cho tâm được thanh thản, nhẹ nhàng, an lạc, v.
... Tu tập là xả những chướng ngại pháp, còn giải quyết công việc mà dùng tri kiến giải thoát thì cũng như tu tập xả tâm không có gì khác đâu. Tu theo đạo Phật là sống xả tâm cho hết lậu hoặc, chứ không tu tập cái gì.
Lậu hoặc còn là còn tu tập; lậu hoặc hết là hết tu tập; hết tu tập là chứng quả, đang tu cũng thấy giải thoát, chứng quả cũng thấy giải thoát. Tu tập là triển khai tri kiến giải thoát. Trí tuệ giải thoát là do huân tập sự hiểu biết giải thoát, từ đó ly tham, sân, si, mạn, nghi đều bằng tri kiến hiểu biết.
Muốn đoạn diệt sự khổ đau của kiếp người thì phải bằng trí tuệ. Pháp đầu tiên mới vào tu tập là pháp môn Bảy Giác Chi, gồm có:
1- Trạch Pháp Giác Chi,
2- Niệm Giác Chi,
3- Tinh Tấn Giác Chi,
4- Khinh An Giác Chi,
5- Hỷ Giác Chi,
6- Định Giác Chi,
7- Xả Giác Chi.
(phải hiểu và phân biệt cho rõ ràng sự khác biệt giữa Bảy pháp Giác Chi và Bảy năng lực Giác Chi). Khi bắt đầu vào pháp tu tập thì phải sử dụng pháp Bảy Giác Chi, trong đó Trạch Pháp Giác Chi là pháp môn tu tập thứ nhất và pháp như lý tác ý đi song hành theo bảy trường hợp xả tâm.
Pháp tu cuối cùng để nhập các định và thực hiện Tam Minh là tu bảy năng lực Giác Chi.
Gợi ý
-
Tu tập an trú
chỉ tác ý một lần đầu rồi ngồi im lặng bất động cho đến hết giờ không có một niệm và hôn trầm thùy miên nào xẹt vào. Khi tu tập nhiếp tâm và an trú tâm đúng thì sức tỉnh giác rất cao nên không bị hôn trầm thuỳ...
-
Tu tập Chánh Tinh Tấn
là tu tập gồm có: Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp và Chánh Mạng. Tu tập Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng tức là tu tập Thân Hành Niệm, tu tập Thân Hành Niệm tức là tu tập Chánh Niệm Tỉnh Giác...
-
Tu Tập Chín Giai Đoạn
1- Nghe Chân Pháp Của Phật (thì phải Thân Cận Bậc Tu Chứng Đạo, đã làm chủ sinh, già, bệnh, chết.) 2- Có Lòng Tin (thì phải được Nghe Chánh Pháp của Phật.) 3- Pháp môn Như Lý Tác Ý (thì phải có Lòng Tin. 4- Chánh Niệm Tỉnh Giác...
-
Tu tập chứng quả A La Hán
Muốn chứng quả A La Hán làm chủ sinh tử và chấm dứt luân hồi và có đầy đủ Tam Minh, Lục Thông thì tu tập không được nhiếp tâm ỨC CHẾ Ý THỨC diệt trừ vọng tưởng. Vì ức chế ý thức là tu tập sai pháp thiền định...
-
Tu tập Định Chánh Niệm Tỉnh Giác
giúp ta tỉnh thức phá trừ si mê hôn ám và thường sống trong thiện pháp.
-
Tu tập Định Vô Lậu
giúp ta sống trong chánh niệm diệt trừ tà niệm.
-
Tu tập đức tùy thuận
là một việc làm khó khăn vô cùng, chỉ có sống ly dục, tránh các duyên, và bảo vệ tâm, giữ gìn sáu căn thì mới có thể ly dục, ly ác pháp dễ dàng mà thôi.
-
Tu tập đúng cách
là tu tập xả tâm, xả tâm đúng cách tức là phải khéo léo thiện xảo, tu tập đúng cách là không bao giờ ức chế tâm. Tu tập đúng cách là phải biết pháp nào tu trước pháp nào tu sau.
-
Tu tập Giới Luật
là giai đoạn tu quán: dùng tri kiến giải thoát mà nhìn mọi sự vật tức là Chánh Tri Kiến; dùng tri kiến giải thoát tư duy suy nghĩ mọi sự vật, mọi pháp, tức là Chánh Tư Duy.
-
Tu tập hành động Thân Hành
là Tỉnh Thức trong Thân Hành, Ý tứ cẩn thận mỗi hành động của thân. Muốn được tỉnh thức trong Thân Hành thì nên tu tập 19 đề mục Hơi thở trong pháp môn Định Niệm Hơi Thở, vì pháp môn Định Niệm Hơi Thở đã dạy phương pháp tu...
-
Tu tập kỹ lưỡng
là siêng năng nhiều. nhưng siêng năng phải đúng cách (Chánh tinh tấn) tu cho có chất lượng, luôn luôn phải để ý xem kết quả trong sự tu tập có đạt được chất lượng tốt hay không, còn siêng năng không đúng cách (Tà tinh tấn) là tu tập...
-
Tu tập ly dục ly ác pháp
biết ngăn ngừa và giữ gìn tâm, ngăn ngừa không cho sáu trần xúc chạm với sáu căn. Lỡ sáu trần xúc chạm với sáu căn sinh ra các cảm thọ thì cố gắng giữ tâm không hề giao động trước ba cảm thọ. Do biết ngăn ngừa và giữ...
-
Tu tập năm căn
Sống độc cư một mình là phương pháp tu tập năm căn. Nhờ sống độc cư một mình nên năm căn không tiếp xúc với các duyên năm trần bên ngoài mà kinh sách Phật giáo gọi là sắc, thanh, hương, vị, xúc. Muốn bảo vệ giữ gìn năm căn...
-
Tu tập nhập “Nhị Thiền”
là tu tập để chứng Thánh quả “Tư Đà Hàm”. Ngoài pháp “Nhị Thiền” không thể tìm quả giải thoát “Tư Đà Hàm” được.
-
Tu tập nhập “Sơ Thiền”
là tu tập để chứng quả Thánh “Tu Đà Hoàn”. Ngoài pháp “Sơ Thiền” không thể tìm quả giải thoát “Tu Đà Hoàn” được.
-
Tu tập nhập “Tam Thiền”
là tu tập để chứng Thánh quả “A Na Hàm”. Ngoài pháp “Tam Thiền” không thể tìm quả giải thoát “A Na Hàm” được.
-
Tu tập nhập “Tứ Thiền”
là tu tập để chứng Thánh quả “A La Hán vô lậu và hướng tâm đến Tam Minh”. Ngoài pháp “Tứ Thiền” không thể tìm quả giải thoát “A La Hán” được.
-
Tu tập Niệm Giác Chi
là tu tập Tứ Chánh Cần, bởi vì, ngăn ác diệt ác pháp, sanh thiện tăng trưởng thiện pháp. Muốn tu tập Tứ Chánh Cần thì Định Niệm Hơi Thở khéo tác ý, Định Niệm Hơi Thở tức là pháp môn Nhập Tức Xuất Tức Niệm
-
Tu tập pháp hướng tâm
Người mới tu tập thì pháp hướng tâm đi liền với hành động hít thở ra vô, để dễ nhiếp tâm. Nhưng khi chuyên sâu vào hơi thở cho đúng theo phương pháp Định Niệm Hơi Thở thì pháp hướng tâm phải đi trước rồi hành động thở sẽ theo...
-
Tu tập pháp môn năm căn
là dùng ý thức giữ gìn mắt, tai, mũi, miệng, thân thanh tịnh không cho năm căn chạy theo năm trần sắc, thanh, hương, vị, xúc thì chúng ta đạt được năm thành quả đó là ngũ lực.